Nghịch lý đại học doanh thu nghìn tỷ: Thừa tiền học phí, thiếu vốn tri thức
Đầu năm học 2025-2026, nhiều trường đại học đã công bố báo cáo thường niên năm 2024 với số liệu tài chính chi tiết theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Một điểm nhấn đáng chú ý là có tới 13 trường đạt doanh thu trên 1.000 tỷ đồng, tăng thêm hai đơn vị so với năm trước.
Trong đó, Đại học FPT tiếp tục dẫn đầu với gần 4.400 tỷ đồng, bỏ xa phần còn lại. Con số nghìn tỷ phản ánh quy mô và tiềm lực tài chính ngày càng lớn của các cơ sở giáo dục đại học, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều câu hỏi về sự bền vững khi phần lớn nguồn thu vẫn dựa vào học phí.
13 trường đạt doanh thu trên 1.000 tỷ đồng, tăng thêm hai so với năm trước.
Trong nhóm 13 trường doanh thu nghìn tỷ có 9 cơ sở công lập. Hai cái tên mới gia nhập năm nay là Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh (HCM) với 1.123 tỷ đồng và Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM đạt 1.120 tỷ đồng.
Các trường vốn đã nằm trong nhóm này từ trước tiếp tục duy trì vị trí gồm Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP HCM, Đại học Kinh tế TP HCM, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Tôn Đức Thắng và Đại học Cần Thơ.
Đáng chú ý, Đại học Cần Thơ quay trở lại nhóm khi doanh thu tăng từ khoảng 950 tỷ đồng năm 2023 lên hơn 1.115 tỷ đồng. Đại học Công nghiệp TP HCM chưa công bố số liệu 2024 nhưng năm trước đã chạm mốc 1.012 tỷ đồng, nhiều khả năng tiếp tục duy trì.
Ở khối ngoài công lập, 4 cái tên quen thuộc là Đại học FPT, Văn Lang, Nguyễn Tất Thành và Hutech. Trong đó, Đại học FPT vượt trội khi đạt 4.377 tỷ đồng, chiếm gần một phần ba tổng doanh thu của cả nhóm.
Dù những con số nghìn tỷ ấn tượng, cơ cấu nguồn thu cho thấy một thực tế ít thay đổi: học phí vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo. Tại Đại học FPT, học phí chiếm tới 90,37% tổng thu, trong khi Đại học Bách khoa Hà Nội cũng ở mức 85%. Ở hầu hết các trường khác, tỷ lệ này dao động từ 70 đến 80%.
Đại học FPT dẫn đầu với gần 4.400 tỷ đồng, bỏ xa phần còn lại.
Nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ hay dịch vụ tri thức vẫn còn rất khiêm tốn. Ngoại lệ hiếm hoi là Đại học Kinh tế TP HCM khi tỷ lệ này đạt 27,6%, cao nhất trong cả nước. Một số trường khác có mức 6 đến 10%, song đa phần gần như không đáng kể.
Thực tế đó cho thấy các trường đại học Việt Nam vẫn đang vận hành chủ yếu dựa vào túi tiền người học, thay vì tri thức và nghiên cứu như xu hướng chung của thế giới.
Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ sự thu hẹp mạnh mẽ của nguồn đầu tư công cho giáo dục đại học.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, giai đoạn 2013-2024, tỷ lệ chi cho giáo dục đại học trong tổng chi giáo dục giảm từ 9,3% xuống còn 3,4%, tính theo GDP chỉ còn 0,11%.
Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới khuyến cáo con số này nên ở mức 1% GDP trở lên. Với mức chi như hiện nay, Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất khu vực và thế giới.
Bộ Giáo dục thẳng thắn thừa nhận, thiếu hụt đầu tư nghiêm trọng đã và đang cản trở mục tiêu nâng tầm đại học Việt Nam lên đẳng cấp khu vực và thế giới.
Dù doanh thu nghìn tỷ gây ấn tượng, cơ cấu nguồn thu lại cho thấy một thực tế ít thay đổi: học phí vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo.
Khi ngân sách ngày càng thu hẹp, các trường buộc phải đẩy nhanh lộ trình tự chủ. Hiện hơn 140 trường đã chuyển sang cơ chế này, đồng nghĩa với việc gánh nặng tài chính ngày càng đặt lên vai người học qua kênh học phí.
Theo khung Chính phủ quy định, các trường công lập chưa tự đảm bảo chi thường xuyên chỉ được thu từ 1,2 đến 2,45 triệu đồng/tháng tùy ngành. Nếu đã tự chủ, mức học phí có thể gấp 2,5 lần. Với các chương trình đạt kiểm định trong và ngoài nước, trường được tự xác định mức học phí.
Thực tế, nhiều trường đã vượt xa khung này. Khảo sát khoảng 130 đại học năm học 2025-2026 cho thấy, mức học phí dao động từ 10,6 đến 250 triệu đồng mỗi năm, phổ biến ở khoảng 20-40 triệu.
Ở nhóm tư thục top đầu, học phí thậm chí lên tới hàng trăm triệu đồng, tạo áp lực không nhỏ cho gia đình và sinh viên.
Các chuyên gia cho rằng để thoát khỏi sự phụ thuộc vào học phí, đại học Việt Nam phải đa dạng hóa nguồn thu. Tuy nhiên, con đường này không dễ dàng. Nghiên cứu khoa học ở nhiều trường vẫn còn manh mún, thiếu tính ứng dụng, doanh nghiệp chưa mặn mà hợp tác.
Mô hình gắn kết viện – trường – doanh nghiệp chưa thật sự chặt chẽ, nhiều đề tài nghiên cứu chủ yếu phục vụ báo cáo khoa học, ít sản phẩm thương mại hóa.
Nguồn thu từ tài trợ, quỹ học bổng, cựu sinh viên vốn đóng vai trò quan trọng ở các đại học quốc tế lại mới manh nha ở Việt Nam, chưa tạo thành văn hóa hiến tặng phổ biến.
"Cỗ máy tạo doanh thu” của đại học Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng nề vào túi tiền người học, chứ chưa dựa vào tri thức, nghiên cứu hay dịch vụ khoa học như thông lệ quốc tế.
Để đại học Việt Nam phát triển bền vững, giới chuyên gia đề xuất nhiều giải pháp đồng bộ. Trước hết, Nhà nước cần điều chỉnh lại tỷ lệ chi cho giáo dục đại học, ít nhất tiến gần khuyến nghị 1% GDP.
Song song, cần khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao tri thức bằng cơ chế hợp tác chặt chẽ hơn giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Hỗ trợ tài chính cho người học cũng là yêu cầu cấp bách, thông qua tín dụng sinh viên hoặc mở rộng học bổng xã hội.
Bên cạnh đó, việc xây dựng văn hóa tài trợ, khuyến khích cựu sinh viên và doanh nghiệp đồng hành với các trường cũng là một hướng đi cần thiết.
Có tới 13 trường đại học Việt Nam cán mốc nghìn tỷ đồng doanh thu là dấu hiệu cho thấy quy mô và tiềm lực tài chính đang được mở rộng. Tuy nhiên, bức tranh tăng trưởng ấy lại được vẽ nên chủ yếu từ học phí.
Nếu không có sự thay đổi trong chính sách đầu tư và chiến lược phát triển, giáo dục đại học Việt Nam có nguy cơ dừng lại ở mức tăng trưởng bề nổi mà thiếu chiều sâu.
Và trong bối cảnh đó, người gánh chịu áp lực lớn nhất vẫn là sinh viên cùng gia đình, những người đang trực tiếp nuôi dưỡng “cỗ máy doanh thu” của các trường đại học.