Những bản làng “đổi màu bản đồ nghèo” nhờ du lịch cộng đồng
Từ những vùng đất nghèo khó, nhiều bản làng ở Tây Bắc đã có bước chuyển mình khi người dân biết dựa vào văn hóa bản địa để phát triển du lịch cộng đồng.
Du lịch kéo người dân lên khỏi dốc nghèo
Trời Sa Pa cuối đông còn se lạnh nhưng ở đầu bản Tả Van (Sa Pa – Lào Cai), chiếc cầu treo vắt qua dòng Mường Hoa đã không còn cảnh trơn trượt, gãy hỏng như ngày trước. Con đường bê tông sáng màu dẫn vào bản khiến bước chân của du khách trở nên thong thả hơn.
“Giờ đường đẹp thế này chứ trước đây, cứ đến mùa mưa là cả bản như bị chia đôi, khách không dám vào, trẻ con đi học trượt ngã suốt” – anh Lầu A Páo, người vừa dắt chiếc xe máy vừa kể.
Anh Páo trước đây là hộ nghèo. Một năm làm nương chỉ đủ gạo ăn 8 tháng. Căn nhà gỗ trên sườn núi từng tối om vì không đủ tiền kéo điện. Thế rồi năm 2018, khi Sa Pa bắt đầu phát triển du lịch cộng đồng, anh mạnh dạn cho tu sửa lại căn nhà, mở homestay nhỏ có 4 giường.


Trải nghiệm hái mận chín tại vườn ở bản Tả Van. Ảnh: Duy Dũng
“Ban đầu mình không biết đón khách thế nào, nói tiếng phổ thông cũng không rõ. Nhưng có cán bộ xã, đoàn thanh niên và mấy bạn hướng dẫn viên trẻ đến dạy từng chút một. Từ cách kê bàn ăn, trải chăn, đến cách kể câu chuyện bản làng cho du khách” – anh nhớ lại.
Hiện mỗi tháng anh đón 40–60 lượt khách, mùa cao điểm có thể gấp đôi. Thu nhập bình quân của gia đình đạt 300–350 triệu đồng/năm, gấp cả chục lần so với thời còn chỉ biết làm nương. Hai đứa con anh trước kia tính chuyện nghỉ học để đỡ đần bố mẹ – nay đều học THCS và THPT ở Sa Pa.
Những ngôi nhà gỗ, mái lá Pơ Mu ngan ngát mùi khói bếp của Tả Van giờ đứng cạnh những homestay tre, nhà sàn cải tạo theo phong cách bản địa. Bản có gần 90 hộ làm du lịch, thu nhập tăng đều hằng năm. Nhiều gia đình không còn nằm trong danh sách hỗ trợ giảm nghèo.


Những bản làng đổi thay, người dân vùng cao thoát nghèo nhờ du lịch cộng đồng. Ảnh: Duy Dũng
Chị Giàng Thị Dế, chủ homestay ở Tả Van Dáy, kể rằng bản chị từng thuộc diện khó khăn nhất xã.
“Khách ít lắm vì đường khó đi, nhà cửa tạm bợ. Từ ngày có dự án hỗ trợ từ nhà nước, chúng tôi được học nấu ăn, học làm mới không gian sống, lại có vốn vay ưu đãi để sửa nhà. Làm du lịch rồi mới thấy mình có nhiều thứ quý: tiếng khèn, khung cửi, bữa ăn với măng rừng, rau đá… Du khách thích lắm” – chị Dế vừa cười vừa xếp lại bộ váy thổ cẩm treo trong góc nhà.
Từ nơi “thắt đáy lưng ong” đến làng du lịch bên hồ Thác Bà
Khác với Sa Pa đông đúc, bản Ngòi Tu của người Tày nằm nép bên hồ Thác Bà như một ốc đảo bình yên. Nhưng sự bình yên ấy trước kia đi cùng sự thiếu thốn. Ngòi Tu từng có tỉ lệ hộ nghèo trên 60%, đường đi chỉ là lối đất nhỏ ven hồ, điện chập chờn.
Ông Triệu Văn Phiến, 62 tuổi, nhớ như in những năm bản còn nghèo đến mức “chỉ có tiếng mái chèo và khói bếp”. Đến năm 2017, khi tỉnh Yên Bái cũ (nay là tỉnh Lào Cai) bắt đầu đưa Ngòi Tu vào hướng phát triển du lịch cộng đồng, bản có bước ngoặt.
Nhiều đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cán bộ văn hóa của huyện đến khảo sát, hướng dẫn bà con vệ sinh môi trường, cải tạo nhà sàn, giữ nguyên kiến trúc truyền thống, đồng thời kết nối với các doanh nghiệp lữ hành.


Vườn nho của của người dân tọa lạc giữa lòng hồ Thác Bà khiến nhiều du khách thích thú. Ảnh: Duy Dũng
Gia đình ông Phiến là một trong 5 hộ đầu tiên mở homestay. “Lo nhất lúc đó là không biết khách có đến không. Nhưng rồi khách về ngày một đông, họ thích chèo thuyền trên hồ, thích xem chúng tôi nhuộm chàm, đan giỏ. Nhờ du lịch mà bản sáng đèn mỗi tối, thu nhập tăng lên rõ rệt” – ông pha chén trà đặc rồi chia sẻ.
Hiện Ngòi Tu có 16 homestay, đón khoảng 30.000 lượt khách/năm, trong đó có nhiều khách quốc tế. Mỗi hộ làm du lịch có thu nhập bình quân 150–250 triệu đồng/năm. Trẻ con trong bản không còn bỏ học theo bố mẹ lên rừng hái măng. Nhiều phụ nữ trước đây chỉ quanh quẩn trong bếp nay trở thành hướng dẫn viên chèo thuyền, biểu diễn văn nghệ, dệt thổ cẩm bán cho khách.
Chị Hoàng Thị Súa, 28 tuổi, là lớp thanh niên đầu tiên của bản được học lớp đào tạo kỹ năng du lịch do Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch phối hợp tổ chức.
“Mình trước rất nhút nhát, gặp khách là lúng túng. Sau khi học, mình biết giới thiệu về lịch sử Thác Bà, biết kể chuyện bản mình bằng tiếng Anh. Càng làm mới càng thấy yêu bản, yêu nghề”, chị nói.
Mạch nguồn mới của du lịch bền vững
Điểm chung của Tả Van – Lao Chải và Ngòi Tu là sự thay đổi hạ tầng rõ rệt. Đường liên bản được cứng hóa gần như 100%, có điện ổn định, mạng internet về tận từng nhà. Đây là yếu tố quan trọng để du lịch không bị gián đoạn theo mùa – điều từng khiến du khách e ngại khi đến vùng cao.
Chính quyền địa phương đã có những chương trình hỗ trợ thiết thực như vốn vay ưu đãi, đào tạo kỹ năng làm du lịch, tập huấn bảo tồn văn hóa, xây dựng mô hình “nhà sạch – ngõ sạch – bản đẹp”, hay hỗ trợ người dân phát triển sản phẩm OCOP như trà Shan Tuyết, mật ong, thổ cẩm.

Không gian thơ mộng tại Tả Van khi về đêm. Ảnh: Duy Dũng
Ông Vũ Thành Long, đại diện Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lào Cai chia sẻ: “Du lịch cộng đồng đã chứng minh hiệu quả giảm nghèo rõ rệt. Điều quan trọng không chỉ là thu nhập tăng mà còn là cách người dân thay đổi tư duy. Họ biết giữ gìn văn hóa để làm du lịch bền vững, biết bảo vệ môi trường, biết làm thương hiệu cho chính bản làng của mình”.
Theo ông Long, Sở đang phối hợp với các địa phương thúc đẩy tiêu chuẩn homestay xanh, hạn chế rác thải nhựa và mở thêm các lớp đào tạo nghiệp vụ.
Nếu như trước đây lớp trẻ ở vùng cao thường xuống thành phố làm công nhân, nhân viên phục vụ, thì nay không ít người chọn về bản để khởi nghiệp du lịch. Ở Sa Pa, anh Vàng Seo Chinh, 25 tuổi, sau khi đi làm khách sạn ở Hà Nội đã quyết định quay về Lao Chải mở dịch vụ trekking dẫn khách vượt bản – leo núi – trải nghiệm ruộng bậc thang theo mùa.
Chinh kể: “Không đâu đẹp bằng quê mình. Mình dẫn khách đi rừng, ăn cơm lam, kể chuyện tục cưới của người H’Mông, họ thích lắm. Nghề trekking thu nhập tốt mà mình được gần gia đình. Nhiều bạn trẻ trong bản cũng muốn học làm hướng dẫn viên, mình đang hỗ trợ họ”.
“Vùng sáng” mới trên bản đồ du lịch cộng đồng
Nhìn lại, người dân Tây Bắc đều có chung ký ức về cảnh sống chật vật: đường không đi được, mùa mưa lũ bị cô lập, trẻ con nghỉ học dài ngày, nhiều thanh niên phải rời quê để mưu sinh. Nhưng sự bền bỉ của người dân cộng với định hướng đúng của địa phương đã biến những bản làng ấy thành điểm đến nổi tiếng.
Điều quý nhất, theo ông Phiến, là “tinh thần của bản đã thay đổi”. Người dân tự giác dọn vệ sinh đường làng, giữ gìn phong tục, hạn chế xây nhà bê tông phá vỡ cảnh quan.


Hồ Thác Bà được ví như “Hạ Long trên núi” giữa đại ngàn Tây Bắc. Ảnh: Thanh Miền
Nhiều du khách quay trở lại không chỉ vì cảnh đẹp mà vì cảm giác được sống trong một không gian văn hóa nguyên bản. Điều đó giúp du lịch cộng đồng không rơi vào vòng xoáy “thương mại hóa”. Nhiều hộ dân hiểu rằng bản sắc là tài sản quý nhất và phải được gìn giữ để phát triển lâu dài.
Theo đánh giá của chính quyền địa phương, mô hình du lịch cộng đồng tại Ngòi Tu đã tạo hiệu ứng lan tỏa. Một số bản khác như Khe Lộng, Làng Chằm cũng đang bắt đầu áp dụng mô hình tương tự. Riêng Lào Cai, Tả Van – Lao Chải được xem là hình mẫu phát triển du lịch gắn với giảm nghèo, thu hút nhiều dự án đầu tư hạ tầng và bảo tồn văn hóa.
Hiện tỉnh Lào Cai đang xây dựng tiêu chí “Bản du lịch nông thôn kiểu mẫu”, trong đó nhấn mạnh yếu tố văn hóa, môi trường, sản phẩm đặc trưng và sự tham gia chủ động của người dân. Mục tiêu cuối cùng là người dân được hưởng lợi nhiều nhất. Khi thu nhập tăng, đời sống văn hóa nâng lên, trẻ em được đến trường đầy đủ thì mới nói đến phát triển bền vững.




In bài viết
