Vụ kiện bắt nguồn từ việc sổ đỏ cấp cho “hộ gia đình”
TAND TP HCM vừa ban hành bản án phúc thẩm vụ “tranh chấp tài sản chung” liên quan khu đất tại Bến Cát, Bình Dương cũ. Tình tiết pháp lý thú vị trong vụ án này là mâu thuẫn bắt nguồn từ việc đất được các bên xác định là tài sản riêng của người mẹ; nhưng sổ đỏ lại cấp cho “hộ gia đình”.
Đòi mẹ chia đất
Theo bản án, bị đơn trong vụ kiện là cụ Nguyễn Thị Thoại (SN 1938, ngụ tổ 3, khu phố 5, phường Chánh Phú Hòa). Nguyên đơn là con trai cụ Thoại, ông Nguyễn Văn Phương (SN 1967).
Bị đơn cho rằng thửa đất 614, 617, tờ bản đồ 33, phường Chánh Phú Hòa diện tích gần 20 ngàn m2 trồng cây, trồng cao su; được cụ và cha mẹ (đã qua đời) khai phá từ năm 1956. Cụ Thoại là con duy nhất trong nhà.
Vợ chồng cụ Thoại (chồng cụ Thoại là liệt sĩ, hi sinh năm 1969) có 4 con, nguyên đơn là con út. Năm 2004, cụ Thoại đăng ký và được cấp Sổ đỏ 01596 ngày 30/11/2004 cho hộ gia đình. Thời điểm này, hộ cụ Thoại có 3 người: Cụ Thoại, mẹ cụ Thoại, ông Phương.
Bị đơn trình bày: “Tôi với con trai ở chung nhưng cơm ai nấy ăn, tiền ai nấy xài”. Năm 2018, người con trai bị cho là đòi hưởng 3/4 khu đất. Người mẹ không chịu. Năm 2020, cụ Thoại khởi kiện, yêu cầu con trai trả lại đất.
Tại biên bản hòa giải ngày 30/12/2021, người con trình bày: “Nguồn gốc đất do ông bà ngoại để lại cho mẹ. Gia đình sống trên đất và có xây dựng, tu tạo công trình 75 triệu đồng”. Người con đồng ý trả lại đất cho mẹ. Các con khác cũng thừa nhận đất do ông bà ngoại để lại cho mẹ.
TAND Bến Cát cũ có Quyết định công nhận sự thỏa thuận 02/2022/QĐST-DS (QĐCNSTT) ngày 7/1/2022, theo đó người con trả lại toàn bộ đất cho mẹ. Người mẹ trả 75 triệu đồng cho con. Quyết định này đã được thi hành án.
Đầu năm 2023, tới lượt người con khởi kiện, đòi chia tài sản chung; thừa nhận đất ông bà ngoại và mẹ khai phá từ 1956, nhưng năm 2004 sổ đỏ đứng tên hộ gia đình và mình là người đang sinh sống, sử dụng nên phải được hưởng phần nhiều hơn.
Vụ kiện này còn có sự tham gia của bà Nguyễn Thị Sương (SN 1960, con gái cụ Thoại), có yêu cầu độc lập, đòi chia tài sản như em trai.
Cụ Thoại không đồng ý, cho rằng đây là tài sản riêng, các con không có công sức gì. Tài sản này đã được xử lý bằng vụ án dân sự năm 2022. Quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật, chưa bị hủy, không bị kháng nghị. Vì vậy, cụ Thoại đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, TAND Bến Cát vẫn thụ lý.
Tháng 6/2024, TAND Bến Cát mở phiên xử, xác nhận đất được cụ Thoại và cha mẹ khai phá từ 1956; nhưng cho rằng “sổ đỏ năm 2004 cấp cho hộ gia đình nên là tài sản chung”. TAND Bến Cát cũng cho rằng QĐCNSTT 02 không phải là phân chia tài sản chung, nên vẫn xét xử.
Tòa nhận định ông Phương trực tiếp canh tác trên đất nên được hưởng riêng 15% giá trị công sức; phần còn lại chia 5. Vợ chồng bà Sương tự nguyện giao đất cho ông Phương nên ông Phương được 3 phần. Tổng cộng ông Phương được hưởng 12.733m2. Cụ Thoại được hưởng 2 phần, hơn 6.000m2.
Xử phúc thẩm tháng 9/2024, TAND Bình Dương xác định, năm 2021, khi cụ Thoại khởi kiện con trai, vợ chồng bà Sương là người có quyền lợi liên quan. Tại vụ kiện này, con trai đồng ý trả lại đất cho mẹ. QĐCNSTT 02 đang có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm (GĐT). Việc con trai, con gái tiếp tục khởi kiện tranh chấp tài sản chung với cùng tài sản trên, thuộc trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực. TAND tỉnh hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ việc, nghĩa là đất của cụ Thoại.
Tuy nhiên, ngày 5/5/2025, TAND cấp cao tại TP HCM (đã giải thể) có Quyết định kháng nghị GĐT. 11 ngày sau (ngày 16/5/2025), Ủy ban thẩm phấn TAND cấp cao tại TP HCM (đã giải thể) có Quyết định GĐT; cho rằng vụ việc con trai, con gái kiện mẹ là khác với vụ kiện đã được giải quyết, nên hủy án phúc thẩm, yêu cầu xử lại.
Phán quyết phiên phúc thẩm lần 2 gây tranh luận
Mới đây, mở phiên phúc thẩm lần 2, TAND TP HCM cho rằng đất tranh chấp trong hồ sơ có nguồn gốc “khai phá năm 1956” nhưng không phải đất cụ Thoại nhận thừa kế hay nhận chuyển nhượng hoặc được tặng cho. Năm 2004 đất này cấp cho hộ cụ Thoại; chồng bà Sương là con rể nên không được công nhận là thành viên.
Tòa nhận định cụ Thoại có công khai phá, đại diện hộ gia đình khi đăng ký kê khai, đứng tên sổ đỏ nên được hưởng riêng 15% theo Án lệ 05/2016/AL. Còn lại 85% chia đều cho 4 người. Cụ Thoại được hưởng thêm phần của mẹ cụ nên được 10.805m2. Ông Phương được hưởng 7.932m2 (gồm cả phần của chị gái).
Vụ kiện được giới chuyên gia đánh giá có nhiều tình tiết pháp lý thú vị, gây tranh luận trái chiều: Có phải trường hợp “1 sự việc, nhiều lần ra phán quyết” như cấp phúc thẩm lần 1 nhận định? Các bên đã thừa nhận đây là tài sản riêng thì có phải chứng minh nữa? Pháp luật về vấn đề này đã khá chi tiết, rõ ràng, việc căn cứ một án lệ để ra phán quyết có hợp lý?
Luật sư (LS) Bùi Thị Lương (Đoàn LS TP Hà Nội) nhận định, năm 2022, TAND Bến Cát giải quyết vụ án tranh chấp liên quan đến thửa đất này. “Thời điểm này, con trai đồng ý trả đất cho người mẹ; con gái không có ý kiến khác. QĐCNSTT 02 chưa bị hủy bỏ, nhưng sau đó tòa lại thụ lý giải quyết cùng nội dung, cùng thửa đất, cùng đương sự; là không phù hợp. Tôi cho rằng khi xử phúc thẩm lần đầu, TAND Bình Dương đình chỉ, là có căn cứ”, LS Lương nói.
Cũng theo LS Lương, tại biên bản hòa giải ngày 30/12/2021, các bên đã thừa nhận đất do người mẹ cùng ông bà ngoại khai phá và ông bà ngoại để lại cho người mẹ: “Theo khoản 2 Điều 92 BLTTDS, đây là tình tiết không cần phải chứng minh. Vì vậy, việc cấp sơ thẩm và phúc thẩm lần 2 xác định đây là tài sản chung, là cần xem xét lại”.
Về phía LS Huỳnh Phước Hiệp nhận định, bản án phúc thẩm lần 2 căn cứ án lệ 05/2016 để cho rằng người mẹ được hưởng 15% công sức khai phá, cũng cần xem xét lại. “Án lệ 05 liên quan đến công sức giữ gìn, tạo dựng tài sản trong khối tài sản thừa kế. Nhận định người mẹ khai phá đất nhưng lại cho rằng đất của hộ gia đình là có sự mâu thuẫn”, LS Hiệp nói.